Mổi năm ba tôi thường chở gia đình tôi lên Bảo Lộc thăm nội tôi , rồi chở tôi lên Đà Lạt chơi . Năm 1963 lần cuối tôi lên Đà Lạt , kỷ niệm cuối cùng của Đà Lạt tôi mang theo trong ký ức là suối vàng , suối bạc .
Đà Lạt xưa – Đà Lạt ancient
Năm 2014 tôi trở lại Đà Lạt tìm lại dỉ vảng . Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có nghĩa cho người này nguồn vui, cho kẻ khác sức khỏe , là một tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng , nằm trên cao nguyên Langbiang với độ cao 1.500 mét so với mực nước biển . Từ xa xưa, vùng đất này vốn là cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho.
Năm 1893 bác sỹ Alexandre Yersin, từ Nha Trang lên thám hiểm tới cao nguyên Langbiang và đề nghị với Toàn Quyền Paul Doumeur chọn nơi nầy làm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang vu, những người Pháp đã xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương.
Als erster Europäer bereiste 1893 der Arzt Alexandre Yersin, ein Mitarbeiter des Mediziners Louis Pasteurs, die Stadt. Jedoch wurde Đà Lạt erst 1912 offiziell durch die französischen Kolonialherren gegründet. Die wörtliche Bedeutung des Namens in der lokalen Lat-Sprache ist „Fluss des Lat-Volkes“. Die Stadt ist von Seen, Wasserfällen und Wäldern umgeben. Sie gilt aufgrund des vergleichsweise milden Klimas, der parkähnlichen Umgebung und der immergrünen Wälder als beliebtes Urlaubsziel ausländischer und einheimischer Touristen. [11]
The French endowed the city with villas and boulevards, and its Swiss charms remain today. Hébrard included the requisite health complex, golf course, parks, schools, and homes but no industry. The legacy of boarding schools where children from the whole of Indochina were taught by French priests, nuns, and expatriates still existed as late as 1969. In 1929, the Christian and Missionary Alliance established a school (Dalat International School) for Canadian and American children of missionaries serving in Southeast Asia. In 1965, the school moved to Bangkok, Thailand; then in 1966 to the Cameron Highlands in Malaysia and then, in June 1971, moved to its present location in Georgetown, Malaysia. There were seminaries of Jesuits (such as Pius X Pontifical College) and other orders.[11]
During the 1890s, explorers in the area (including the noted bacteriologist Alexandre Yersin, protégé of the renowned French chemist Louis Pasteur), which was then part of the French territory of Cochinchina, asked the French governor-general, Paul Doumer, to create a resort center in the highlands. The governor agreed. The original intended site for the hill station was Dankia, but Étienne Tardif, a member of the road-building expedition of 1898-99, proposed the current site instead. In 1907, the first hotel was built. Urban planning was carried out by Ernest Hébrard. [11]
Ville de montagne romantique, Đà Lạt exerce une attraction touristique importante grâce à ses paysages : chutes d’eau, lacs, prairies luxuriantes et vallées fleuries, ses villas coloniales dont le style art-déco (1920-1940) rappelle l’architecture des provinces de l’ancienne métropole. On y trouve des villas normandes aussi bien que des chalets savoyards ou des maisons basques, et une cathédrale à la française. L’hôtel Langbian Palace (aujourd’hui Dalat palace), inauguré en 1922, accueille les colons en villégiature fuyant les grandes chaleurs.
L’empereur Bao Dai y possédait une résidence. Son épouse fit venir de France les Chanoinesses de Saint-Augustin de la Congrégation Notre-Dame pour y ouvrir un internat d’élite en 1935, Notre-Dame du Langbian (Couvent des Oiseaux), où elle inscrivit ses filles. [11]
Đà Lạt có khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm. Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như „Thành phố mù sương“, „Thành phố ngàn thông“, „Thành phố ngàn hoa“, „Xứ hoa Anh Đào“ hay „Tiểu Paris“.
Đà Lạt liegt auf ca. 1475 m im zentralen Hochland, hat viele Namen. „Klein Paris“, „La Petite Paris“, „ Stadt des ewigen Frühlings“ . Das kühle Klima und die parkähnliche Umgebung unterscheiden diese Stadt von anderen in Vietnam. Kennzeichen dieser Stadt. Das Klima ist sehr angenehm, Höchsttemperaturen von etwa 24 Grad und Tiefsttemperaturen die bei 15 Grad liegen. Der ewige Frühling...
Đà Lạt, located in the central highlands at about 1475 m, has many names. „Little Paris“, „La Petite Paris“, „City of Eternal Spring“. The cool climate and the park-like surroundings distinguish them from other city in Vietnam. Characteristic of this city. The climate is very pleasant, maximum temperatures are about 24 degrees and lows in the 15 degrees. The eternal spring …
Đà Lạt, située dans les hauts plateaux du centre à environ 1475 m, a beaucoup de noms. „Petit Paris“, „La Petite Paris“, „ville de l’éternel printemps“. Le climat frais et les environs du parc comme les distinguer des autres ville du Vietnam. Caractéristique de cette ville. Le climat est très agréable, les températures maximales sont d’environ 24 degrés et des bas dans les 15 degrés. Le printemps éternel …
ダーラットあるいはダラット(ベトナム語: Đà Lạt、Dalat)は、ベトナム中南部の都市。フランス植民地時代に、避暑地として開発された。
標高1475メートルの街はダーラット湖沿いに開けている。2009年の人口は約20万人。
現在はベトナム人カップルの新婚旅行先として人気がある。市内ではよく二人乗り自転車のタンデムに乗ったカップルを見かける
Tôi lên Đà Lạt vào tháng ba , mùa khô , mấy thác nước không có nước nhiều như mùa mưa . Đà Lạt có nhiều thác nước đẹp nhưng tôi chỉ đi tham quan thác Prenn , thác Pongour và thác Datanla.
Ich besuche Dalat im März, die Trockenzeit, der Wasserfall hat nicht viele Wasser wie der Regenzeit . Da Lat hat viele schöne Wasserfälle, aber ich besuche nur Prenn Wasserfall, Pongour Wasserfall und Datanla Wasserfall.
I visit Da Lat in March, the dry season, the waterfall has not many water as the rainy season. Da Lat has many beautiful waterfalls, but I only visit Prenn waterfall, Pongour and Datanla waterfall.
Je visite Da Lat en Mars, la saison sèche, la cascade a pas beaucoup d’eau que la saison des pluies. Da Lat a beaucoup de belles chutes d’eau, mais je visite seulement chute Prenn, cascade Pongour et Datanla cascade.
Thác Prenn nằm ở chân đèo Prenn ven quốc lộ 20 , cách Đà Lạt khoảng 10 km
Thác Pongour thuộc huyện Đức Trọng trên quốc lộ Đà Lạt – Sài Gòn , cách Đà Lạt 50 km
Thác Datanla cách Đà Lạt 10 km và cách thác Prenn 8 km
Ngày đầu tiên tôi ở khách sạn Empress , đuờng Nguyễn Thái Học nằm bên hướng Tây hồ Xuân Hương . Khách sạn có lối kiến trúc Pháp và có hai lối ra , một lối xuống hồ Xuân Hương và một lối đi xuống chợ Đà Lạt .
Hôm dọn chổ ngủ từ khách sạn Empress qua DaLat Palace tôi để quên lại trong phòng Ipad và notebook thinkpad . Lúc dọn đồ ra thì không thấy , kêu điện thoại qua hỏi thì nhân viên khách sạn kêu tôi qua nhận lại .
Sau đó thì tôi qua Dalat Palace , đường Trần Phú . Khách sạn nầy có 39 phòng và 5 suites , Larry’s Bar , sân Golf , sân tennis và restaurant được xây vào năm 1916 – 1922. Dalat Palace là nơi Vua Bảo Đại gặp Nguyễn Hữu Thị Lan lần đầu tiên.
Năm 1946 khách sạn nầy là nơi hội nghị Đà Lạt trù bị cho hội nghị Fontainebleau vào tháng bảy 1946 . Phòng 101 đả từng là phòng nghỉ của ông Võ Nguyên Giáp và phòng 103 là phòng nghỉ của ông Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ) , khi hai ông đến Đà Lạt tham dự hội nghị Đà Lạt trù bị năm 1946.
Phòng 101
Phòng 103
DaLat Palace có sân thượng , 2 tầng phòng ngủ, tầng trệt và tầng hầm . Tầng trệt với phòng khách , lể tân , phòng ăn , phòng Fitness , phòng thư viện và hai phòng nhỏ trưng bầy sản phẩm kỷ niệm của XQ sử quán.Tầng hầm gồm có phòng làm việc của giám đốc và nhân viên , Larry’s Bar và đường hầm đi qua DaLat du Parc và cafe de la poste.
Chung quanh là một khuông viên khoảng 6 ha trồng cỏ và thông , bên trái là hai sân tennis.
Larry’s Bar có thể vô từ mặt sau của DaLat Palace hay từ trong khách sạn . Đối diện với Larry’s Bar mổi sáng có xe chở qua sân Golf Dalat Palace ( đồi cù ).
Từ sân thượng có thể nhìn tổng quát thành phố Đà Lạt , núi Voi , núi Langbiang , đồi Robin , thung lủng vàng , trường Lycée Yersin
Tầng hai là phòng ngủ và phòng Masage
Tầng một là phòng ngủ
Tầng trệt : Lể Tân , phòng đợi , phòng ăn , phòng uống rượi , phòng Fitness , Rose Library . Từ tầng trệt có cầu thang xuống tầng hầm
Rose Library
phòng Fitness
Tầng hầm : Larry’s Bar , phòng làm việc của giám đốc và nhân viên , nhà bếp , chổ đậu xe cho nhân viên , đường hầm thông qua Hotel Du Parc DaLat và cafe de la poste .
Larry’s Bar
nhà bếp
Đường hầm đi thẳng là qua Hotel Du Parc DaLat , quẹo mặt là qua Cafe de la poste
Dalat Palace ban đêm
Từ Dalat Palace đi bộ ra chợ Đà Lạt và Siêu thi Big C ( mở cửa năm 2014 , của người Pháp ) khoảng 20 phút
Hotel Du Parc DaLat xây năm 1932
Thang máy
Lể tân
XQ Sử Quán
Cafe de la Poste xây năm 1928 , một tiệm bán thực phẩm cho người Pháp . Tầng trên là nơi nhà văn Nhất Linh cư ngụ trong thời gian ông ở Đà Lạt .
Nhìn qua Hotel Du Parc DaLat
Ngày 1
Nhà thờ con gà nằm trên đường Trần Phú hay nhà thờ chính tòa Thánh Nicôla Bari, còn có tên gọi là nhà thờ Con Gà vì trên đỉnh tháp chuông có gắn một con gà bằng đồng dài 0,66m, cao 0,58m.
Nhà thờ chính tòa Đà Lạt hiện nay được chính thức khởi công vào 9 giờ sáng chủ nhật ngày 19 tháng 7, 1931 do Giám mục Colomban Dreyer (khâm sứ Toà Thánh tại Đông Dương và Thái Lan) đặt viên đá đầu tiên. Được xây theo đồ án của linh mục Céleste Nicolas, cha sở lúc bấy giờ. Công trình được xây dựng trong suốt 11 năm. Nhà thờ khánh thành ngày 25 tháng 1, 1942.
Biệt điện Trần Lệ Xuân gồm ba biệt thự nằm ở số 2 đường Yết Kiêu, thành phố Đà Lạt, Việt Nam. Vào thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, biệt thự này là nơi nghỉ của gia đình Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu. Sau đó được dùng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên và ngày nay trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, đây là nơi lưu giữ một kho báu lịch sử với 34.555 tấm mộc bản triều Nguyễn.
Mộc bản triều Nguyễn
Công trình được khởi công năm 1958 trong một khuôn viên diện tích 13.000m2 được thiết kế nằm trên một quả đồi giữa rừng thông vây quanh.Toàn bộ khuôn viên khu biệt thự rộng trên 13 ngàn mét vuông. Biệt thự Bạch Ngọc được trang bị hồ bơi nước nóng. Phía sau biệt thự Lam Ngọc là vườn hoa Nhật Bản. Biệt thự Lam Ngọc còn có đường hầm thoát hiểm và hầm trú ẩn.
Vườn hoa Nhật Bản
Biệt điện Trần Lệ Xuân gồm ba biệt thự:
Madame Nhu palace consists of three villas:
Biệt thự Bạch Ngọc: nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân .
Biệt thự Hồng Ngọc: Trần Lệ Xuân dự định dành cho cha của mình, ông Trần Văn Chương.
Biệt thự Lam Ngọc: nơi nghỉ cuối tuần của riêng gia đình Trần Lệ Xuân.
ZEN Café Dalat , 27C đường Pham Hong Thai
Chủ nhân là người Đức , đây là một quán cà phê có hai phòng cho thuê . Từ Zen Café đứng nhìn xuống thấy nhà ga củ của Đà Lạt.
Nhà ga Đà Lạt, số 1 đuờng Quang Trung
là nhà ga tàu hỏa của thành phố Đà Lạt, được xem là nhà ga cổ kính nhất Việt Nam và Đông Dương. Nhà ga hỏa xa Đà Lạt do kiến trúc sư Revéron thiết kế, xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành, là nhà ga đầu mối trên tuyến Đường sắt Phan Rang-Đà Lạt dài 84 km. Nhà ga có ba mái hình chóp, là cách điệu ba đỉnh núi Langbiang hoặc nhà rông Tây Nguyên. Tuyến đường sắt duy nhất hiện nay nhà ga còn phục vụ chính là tuyến Thành Phố Đà Lạt – Trại Mát dài 7 km đưa du khách đến với Trại Mát và chùa Linh Phước.
Der Bahnhof von Da Lat ist ein Schmuckstück. Die Cremailliere-Eisenbahn verband zwischen 1928 und 1964 Da Lat mit Thap Cham – Phan Rang . Die Strecke wurde 1964 stillgelegt. Die einzige Verbindung heute per Bahn ist eine Zahnrad- bahn zum 8 Kilometer entfernten Ort Trai Mat.[11]
The train station of Dalat is a gem. The Cremaillere Railway Association 1928-1964 connect Da Lat with Thap Cham – Phan Rang. The line was closed down in 1964..The only connection today by train is a cog railway to 8 km distant location Trai Mat.[11]
La gare de Dalat est un bijou. La Crémaillère Railway Association 1928-1964 relier Da Lat avec Thap Cham – Phan Rang. La ligne a été fermée en 1964..La seule liaison aujourd’hui partrain est un train à crémaillère à 8 km endroit éloigné Trai Mat.[11]
Bún bò Huế
Nem bà Hùng
Nhà Thủy Tạ , số 1 đuờng Trần Quốc Toản
Vào năm 1919, khi Hồ Lớn (Grand Lac) được tạo lập để tạo cảnh quan trung tâm Đà Lạt, kiến trúc sư Hesbrand thiết kế một nhà sàn bằng gỗ trên hồ. Một thời gian sau, vào khoảng đầu thập niên 30, Nhà Thủy Tạ với chức năng là một Câu lạc bộ thể thao dưới nước (bơi lội, thuyền chèo,…) đã được xây dựng với kiến trúc có hình dạng tựa một tổ ếch (grenouillère), cấu trúc nhà sàn trên cột như bay bổng trên mặt nước. Hệ thống cầu nhảy ba cấp cao với mặt đứng chỉ gồm những nét thẳng dứt khoát và thanh mảnh.
Cà phê Thanh Thuỷ
Nằm chênh chếch và đối lập với màu trắng thanh của cà phê Thuỷ Tạ, cà phê Thanh Thuỷ tạo ấn tượng mạnh với màu tím thơ mộng của hoa pensée .
Tuy quanh năm chỉ có hai mùa mưa và nắng nhưng điểm đặc biệt là ở Đà Lạt ta có thể cảm nhận được thời tiết đủ bốn mùa trong cùng một ngày.
Buổi sáng sớm trời lạnh, nhiệt độ hãy còn thấp, sương mù giăng mắc khắp các núi đồi, thung lũng và bao phủ mặt hồ Xuân Hương , mùa Xuân rực rỡ phô sắc.
Tới buổi trưa, mặt trời lên cao tỏa ánh sáng ra khắp nơi nơi. Thời tiết có chút nóng ấm của mùa Hạ óng ả.
Buổi chiều những cơn gió nhẹ mát rượi của mùa Thu lãng mạng .
Buổi tối, vào lúc nửa khuya, nhiệt độ xuống thấp nhất, vạn vật dường như chìm đắm trong trời Đông buốt giá u buồn với màn sương giăng phủ.
Sáng sớm và sau buổi chiều tắt nắng, những cơn gió thì thầm qua hàng cây thông trong dinh Bảo Đại II . Thỉnh thoảng nửa đêm chợt giật mình khi nghe tiếng thông reo . Một kỷ niệm khó quên .
Dinh Bảo Đại II xin đọc “ Hoàng Triều Cương Thổ – đi ngược giòng thời gian „
Ngày 2
Nói đến Đà Lạt là phải nói đến hoa dã quỳ . Trong bài nhạc Đà Lạt lập đông nhạc sỉ Thế Hiển nhắc khéo những ai yêu mến xứ ngàn hoa rằng đã vào mùa hoa dã quỳ nhuộm vàng từng quả đồi, con đường, đèo dốc…
Đà Lạt lập đông hoa vàng vừa mới nở
Ta còn chờ em một giấc mơ hoàng lan
Hoa dã quỳ được người Pháp đưa vào các đồn điền ở Lâm Đồng. Nó được trồng khi đó để làm phân xanh cho các vườn cà phê, cao su. Cây dễ trồng nên loài cây này dần dà chiếm lĩnh các nơi hoang dại ở khắp Tây nguyên. Dã quỳ cũng đã được sử dụng làm biểu tượng chính cho lễ hội hoa Đà Lạt tháng 12 năm 2005. Dã quỳ thường ra hoa vào mùa đông, đuợc coi như là một loài cây báo hiệu cho sự xuất hiện của mùa khô, khi hoa dã quỳ nở có nghĩa là mùa khô đã đến rất gần.
Muốn ngắm hoa Mai Anh Đào, hoa Ban trắng hay Phượng Tím hãy đến Dalat mùa xuân.
Mùa Đông Dalat bắt đầu cỡ tháng 10, trời khá lạnh, nhất là tháng 11. Đến Dalat lúc mùa Đông, từ sân bay Liên Khương hay đèo đường bộ đều ngập tràn màu vàng hoa quỳ. Từ tháng 9-10 cũng là mùa Mimosa nở nhưng hình như Mimosa nở suốt trong năm, chu kỳ khoảng 3-4 tháng. Sương mù cũng nhiều vào mùa này.
Dinh Bảo Đại I , II , III và Cung Nam Phương Hoàng Hậu xin đọc “ Hoàng Triều Cương Thổ – đi ngược giòng thời gian „
Ngày 3
Đà Lạt Casada Resort , đường Trần Hưng Đạo
Trên một khu đất rộng khoảng 6 ha dọc theo đường Trần Hưng Đạo có một số biệt thự Pháp theo lối kiến trúc miền Bắc nước Pháp. Nhửng biệt thự nầy được sừa sang thành khách sạn.
Hoa Violet ngày thứ tư là một quán cà phê trong khuông viên Casada Đà Lạt
Một cỏi đi về là một quán ăn vào buổi tối có trình diển những bài nhạc của nhạc sỉ Trịnh Công Sơn
Nhà nguyện tu viện Biểu Đức , gần Dinh Bảo Đại I
La chapelle du monastère des bénédictins
Đà Lạt là thành phố 3 KHÔNG:
1. KHÔNG có đèn xanh đỏ lưu thông
2. KHÔNG xích lô.
3. KHÔNG điều hòa nhiệt độ.
Da Lat hat 3 NEIN: 1. Kein Ampel Verkehr, 2. Kein Cyclo, 3. Kein Klimaanlage
Da Lat has 3 NO : 1. No traffic lights, 2. No cyclo, 3. No air conditioning.
Da Lat a 3 NON: 1. Pas de feux de trafic , 2. Pas de cyclo , 3. Pas de climatisation.
thác Datanla
Đatanla hay Đatania do các từ K’Ho ghép lại: „Đà-Tàm-N’ha“ có nghĩa là „nước dưới lá“.
chợ đêm Đà Lạt
Cuối tuần Đà Lạt có chợ đêm , tôi đi bộ từ Đà Lạt Palace , dọc theo hồ Xuân Hương tới chợ đêm . Bánh khọt , bánh trán nướng …vv…
Ngày 4
thác Prenn
Tôi đến thác Prenn lần nầy là lần thứ ba . Hai lần trước một lần sáu tuổi , một lần mười hai tuổi . Thác Prenn ngày xưa rất vắng khách thăm viếng .
Cà phê chồn ở Trại Hầm , ở đây chồn được cho ăn hạt cà phê , sau đó phân chồn được rửa sạch lấy những hạt cà phê ra , ráng chín thành cà phê . Vì chồn chỉ chọn những hạt cà phê chín và ngon mới ăn , do đó nhửng hạt nầy thường to và tốt .
Kopi Luwak
Domaine de Marie
Nhà thờ Mai Anh Đà Lạt được xây dựng vào tháng 08 năm 1939 , sau 3 năm nhà thờ đuợc hoàn thành vào năm 1942 . Ởđây các sơ đã nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi và dạy nghề cho các em như dệt, thêu, vẽ tranh, v.v.. Hệ thống mái, có hình dáng tựa như nhà rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Mái nhà có độ dốc khá lớn, được lợp ngói màu đỏ sản xuất ở Việt Nam.
Die Domaine de Marie-Kirche, auch Mai Anh Kirche oder Kirsche Kirche genannt wird, ist die Heimat der römisch-katholischen Nonnen der Mission der Nächstenliebe. Es wurde von 1930 bis 1943 im Anschluss an die Französisch-Stil aus dem 17. Jahrhundert gebaut. Vor 1975 ist dies der Hauptabtei mit mehr als 50 weibliche Nonnen, von denen die meisten Vietnamesen, die durchführen soziale Aktivitäten wie Waisenhaus und Kindegarten.
The Domaine de Marie Church, also called Mai Anh Church or Cherry Church, is home to the Roman Catholic nuns of the Mission of Charity. It was built from 1930 to 1943 following the 17th century French style. Before 1975, this is the main abbey with more than 50 female nuns, most of which are Vietnamese who carry out social activities like opening orphanages.
Le Domaine de Marie ( Mai Anh) est un couvent catholique situé à Dalat au Viêt Nam construit de 1930 à 1940 par la congrégation des Filles de la Charité de saint Vincent de Paul.
La chapelle, s’inspirant de l’architecture normande du XVIIe siècle modernisée au goût du XXe siècle, mélange aussi des éléments locaux, de même que l’ensemble des autres bâtiments du couvent, comme le montrent les toits en pente typiques de l’architecture des hauts plateaux. La chapelle mesure 33 mètres de longueur et 11 mètres de largeur. Le Domaine de Marie abritait plus de trois cents Sœurs qui s’occupaient d’un orphelinat et de plusieurs jardins d’enfants. Les Françaises sont parties à cette époque. Il reste aujourd’hui des Sœurs vietnamiennes qui s’occupent d’enfants handicapés et vendent des fruits et des sucreries, ainsi que des objets d’artisanat.
La statue de Notre-Dame, sculptée en 1943, est l’œuvre d’Évariste Jonchère (1892-1956), à l’époque directeur de l’École des Beaux-Arts d’Indochine. Elle mesure trois mètres de hauteur. C’est un don de l’épouse du haut-commissaire en Indochine, Mme Jean Decoux, née Suzanne Humbert, également bienfaitrice du couvent, qui est enterrée derrière la chapelle, selon ses dernières volontés.
Phía sau nhà thờ là phần mộ của bà Decoux, để hoàn thành tâm nguyện của bà và để ghi nhớ công ơn của bà, người có công trong việc giúp xây dựng nhà thờ. Bà bị tai nạn tại đèo Prenn và qua đời vào năm 1944.
Bà Decoux, nhủ danh là Suzanne Humbert, vợ của Đô Đốc Jean Decoux. Jean Decoux là Toàn Quyền Đông Dương từ tháng 7 năm 1940 đến 9 tháng 3 năm 1945
Lang Biang
Đỉnh Lang Biang được ví như “ nóc nhà “ của Đà Lạt , nằm ở cao độ 2167 m so với mặt biển và cách thành phố 12 km thuộc địa phận huyện Lạc Dương . Muốn lên đỉnh có hai đường :
– đi bộ
– đi xe Jeep
vườn hoa Đà Lạt
Couvent des Oisseaux, Notre Dame du Lang Bian
xây vào năm 1935 và là trường trung học đầu tiên dạy tiếng Pháp tại Đà Lạt .
Ngày 5
Thác Pongour hay còn gọi là thác Bảy tầng là một ngọn thác tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, nằm cách Đà Lạt 50 km về hướng Nam.
Chợ Đà Lạt
Biệt thự Hằng Nga . Chủ nhân biệt thự Hằng Nga là kiến trúc sư Nguyễn Việt Nga . Biết thự Hằng Nga có kiến trúc như Gaudi ở Barcelona.
Ana Mandara Resort gồm nhiều biệt thự Pháp nằm trên đồi thông , có hồ tắm ngoài trời , yên tỉnh và đẹp .
Đối diện với Ana Mandara Resort là cà phê Long Triều , uống rất thơm .
Biệt thự Nguyễn Viết Xuân gồm nhiều biệt thự Pháp
Café Đà Lat Night tọa lạc tại số 4 Đống Đa, thành phố Đà Lạt. Café Dalat Nights nằm cheo leo trên một một quả đồi, từ đây có thể ngắm nhìn toàn bộ thành phố từ trên cao.
Ngày 6
Lăng Nguyễn Hửu Hào
Lăng Nguyễn Hửu Hào ist die Nguyen Huu Hao Grabstätte – Vater von Königin Nam Phuong – liegt auf den Hügeln im Südwesten Stadt Da Lat.
Lăng Nguyễn Hửu Hào is Nguyen Huu Hao’s tomb – Queen Nam Phuong’s father – is located on the hills in the southwest city of Da Lat.
Lăng Nguyễn Hửu Hào est la tombe de Nguyen Huu Hao – père de la reine Nam Phuong – est situé sur les collines de la ville sud-ouest de Da Lat.
Dữ quốc đồng hưu thiên cổ hà sơn thư khoán vĩnh
Dưỡng thân dục đãi bách niên phong thụ đỉnh chung bi.
Chất giáng trụ thiên phảng phất anh linh quy thổ lạc.
Chung trừ túc địa uất thông vượng khí hộ giai thành.
Tạm dịch:
Một lòng với nước, ngàn năm sông núi mãi ghi trong sách sử, khoán ước.
Nuôi dưỡng cha mẹ, trăm năm cây gió khắc ghi nỗi đau buồn trên chuông đỉnh.
Chót vót chống trời, phảng phất khí thiêng về nơi an lạc.
Đất thiêng tốt lành, bao trùm vượng khí bảo vệ chốn giai thành.
bốn hàng chử nầy được khắc trên bốn trụ thẳng trang trí hoa sen và chó ngao do chính Nam Phương Hoàng Hậu đề tự . Cổng vào lăng Nguyễn Hửu Hào , cha của Nam Phương Hoàng Hậu . Mùa thu năm Kỷ Mão (13 tháng 9 năm 1939), Nguyễn Hữu Hào mất tại Đà Lạt , Nam Phương Hoàng Hậu cho xây dựng lăng mộ cho ông vào cuối năm 1939.
Lăng Nguyễn Hửu Hào , Long Mỷ Quận Công , nằm trên một đồi thông gần thác Cam Ly . Đường lên lăng gọi là nhất chính đạo (con đường duy nhất lên lăng) gồm 36 bậc, cứ cách 9 -13 bậc sẽ có một chiếu nghỉ. Bây giờ thì có thêm một đường cho xe hơi chạy thẳng lên lăng .
Trên lăng có một khoảng sân tế rộng và một cái đỉnh lớn. Trong nội thất có hai ngôi mộ bằng đá xanh lộ thiên hình chữ nhật cao khoảng 30 cm. Ông Nguyễn Hửu Hào là người công giáo do đó trên mái đỉnh có hình cây thánh giá.
Bài minh bia hiên khảo
Long Mỹ Quận Công Nguyễn Hữu Hào
Khí thiên Đồng Nai , anh linh Tiền Giang
Hun đúc nên người , sinh bậc hiền triết tài năng
Kính nghĩ : cha ta trời ban chân tính , lòng từ hiếu hảo
Gửi thân đoan chính , gặp buổi văn minh
Kiến thức sâu rộng , giàu lòng đạo đức , người đều ngưỡng mộ
Lể giáo gia truyền , đức lớn sinh ta
Bệ son rợp ơn , dòng dõi vẽ vang
Thiên tử ơn sâu , tân phong công tước
Ước định khoản thư , bền với non sông
Nhưng tuần bảy mươi , hoá cỏi về trời
Danh cao bất hủ , muôn đời còn ghi
Ngắm trông núi hồ , mậy trắng vời vợi
Bên gò cảm xúc , gió thông vi vu
Tưởng nhớ đức xưa , tinh thần bất diệt
Nguyện cầu thiên chúa , che chở an lành
Cõi người kí gửi , biệt ly thường xuyên
Thiên đường hưởng phước , trăm đời đều về
Ơn sâu vô lượng , bươn bả mến thương
Dựng toà bia này , lâu đài ngàn đời
Ngày mùng 1 tháng 8 năm Bảo Đại thứ 14 ( 1939 )
Thiên chúa giáng sinh năm 1939 , ngày 13 tháng 9
Con gái :
– Hoàng Hậu Nam Phương nước Đại Nam
– Phu nhân Nam tước Didelot
Kính lập
Sở địa dư Đông Dương , 14 đường Yersin
Le service géographique de l’Indochine
Ngày 5.7.1894, Sở địa dư Đông Dương được thành lập, trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1940, trụ sở Sở địa dư Đông Dương dời vào Gia Định.
Cuối năm 1944, Sở địa dư Đông Dương dời lên Đà Lạt với nhiệm vụ: biên tập, vẽ và in bản đồ phục vụ cho 3 nước Đông Dương. Sở địa dư Đông Dương được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành năm 1943.
Villa Lemoine
Bác sỉ Lemoine có lẻ là người bác sỉ đầu tiên ở Đà Lạt . Hầu hết người Đà Lạt ra đời ở nhà bác sỉ Lemoine, xây năm 1935 , sau đó thì sang lại cho bác sỉ Sohier .
Siêu thị Big C
Siêu thị Big C nằm gần công viên Yersin , từ Dalat Palace tới siêu thị Big C khoảng 20 phút đi bộ.
Đá Tiên là một khu du lịch dã nằm bên hồ Tuyền Lâm ở đây có thể bơi thuyền, câu cá, cưỡi voi, đi săn, leo núi, nghỉ ngơi trong nhà sàn, đốt lửa trại, xem trình diễn văn nghệ của đồng bào dân tộc… Hồ Tuyền Lâm nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5km về hướng nam. Hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía.
Hồ Tuyền Lâm
Edensee Dalat Resort nằm bên hồ Tuyền Lâm . Đẹp và yên tỉnh , kiến trúc và trang trí theo kiểu Đức .
Lể tân
Phòng ăn
Phòng đọc sách
Vủ trường
Sân thượng
Ngày 7
Đồi Robin
Chùa Linh Phước còn được gọi là Chùa Ve Chai vì trong sân chùa có con rồng dài 49 m được làm bằng 12.000 vỏ chai bia. Chùa được khởi công xây dựng vào năm 1949, hoàn thành năm 1950.
Chùa Linh Sơn được khởi công xây dựng vào năm 1938, và hoàn thành vào năm 1940.
“ Linh Sơn đâu đây buông tiếng chuông ban chiều
Như ru ai say trong giấc mơ dạt dào …“
Minh Kỳ
Hòa Thượng Thích Mãn Giác, pháp danh Nguyên Cao, đạo hiệu Huyền Không, thế danh Võ Viết Tín, sinh năm Kỷ Tỵ, 1929 tại Cố đô Huế,nguyên quán thuộc làng Phương Lang, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị . Năm 1960, đi du học Nhựt Bổn, được tiếp xúc miền đất Thiền học hưng thịnh và được thở hương Đạo mặn mà ủ kín nơi những bài thơ Hài Cú tài hoa và dưới những cánh hoa anh đào rực rỡ. Sư Huyền Không đả có một thời gian lưu trú tại chùa Linh Sơn , trong bài viết “ Không gian thành chiếc áo , Huyền Trang, Đà Lạt – 1960 “ , in tại Los Angeles năm 1985 viết về Đà Lạt và chùa Linh Sơn .
“Tôi đến Đà Lạt vào giữa năm 1953 và tôi đã giã từ Đà Lạt để đi Tokyo cũng vào giữa năm 1960. Trong những tháng năm dài đó, hồn Đà Lạt đã len vào người tôi tự bao giờ mà tôi không hay…. Trước sân chùa Linh Sơn Đà Lạt có vài cây Mimosa, loại lá dài và loại lá tròn. Những đêm trăng hay những sáng sương mờ, tôi thường dạo quanh trước sân chùa. Hương của hoa Mimosa ngạt ngào và thơm dịu hiền. Một lần đi qua thành phố Ojai, nghe mùi hương của hoa Mimosa làm tôi nhớ về Đà Lạt… Tôi thích cảnh trí của chùa Linh Sơn, vì sân chùa là cả một vòng cung. Bao bọc vòng cung đó là những hoa những cỏ, điểm tô cho chùa Linh Sơn trở nên một thắng cảnh danh tiếng của thành phố này…. Những tháng năm sống tại Nhật, thỉnh thoảng tôi có đến các thành phố Nikko, Hakone… Hay như ở Mỹ này, tôi đã từng ngủ lại 3 đêm tại công viên Yosemite của California. Trong đêm yên lặng, tôi đã từng nghe tất cả cái xa vắng của núi rừng để nhớ về Đà Lạt, nhớ những chòm thông của thời nào rơi rắc những phấn thông vàng để rồi có câu thơ:
“Thông xanh rải rắc phấn vàng
Nghe chăng gió thoảng cung đàn biệt ly.”
Thơ là thơ của ngày xưa mà sao nghe chừng như của hôm nay. Xin cảm tạ Đà Lạt nghìn trùng đã sống như chưa từng chết.”
trường Grand Lycée Yersin là kiến trúc được công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20. được thành lập năm 1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế .
Das Grand Lycee Yersin ist die Architektur, die als eine der einzigartige Architektur von 1000 Gebäude aus dem 20. Jahrhundert von der Association of Architects (UIA) berücksichtigt. Die Schule wurde 1927 von der Französisch gegründet und Architekten Moncet ist derjenige, der entworfen und leitete den Bau. Die Schule war für die Französisch und die Reichen Vietnamesisch Familie. 1932 wurde Dalat Petit Lycée Hochschule den Grand Lycée de Dalat umbenannt. Im Jahr 1935 ist die Schule benannt Lycée
The Grand Lycee Yersin is the architecture that considered as one othe most unique architecture of 1000 building’s 20th-century by the Association of Architects (UIA). The college was founded in 1927 by the French and architect Moncet is the one who designed, directed the construction. The college was for the French and the wealthy Vietnamese family. In 1932, Dalat Petit Lycée College was renamed the Grand Lycée de Dalat. In 1935 the school named Lycée Yersin memorial attribution of Dr. Alexandre Yersin.
Le Grand lycée Yersin est l’architecture qui considéré comme l’un l’architecture la plus unique de 20e siècle de 1000 bâtiment par l’Association des Architectes (UIA). Le collège a été fondé en 1927 par les Français et architecte Moncet est celui qui a conçu, a dirigé la construction. Le collège était pour les Français et la famille vietnamienne riche. En 1932, Dalat Petit Lycée Collège a été rebaptisé le Grand Lycée de Dalat. En 1935, l’école nommé Lycée Yersin attribution mémorial de Dr Alexandre Yersin.
Nhà ma Đà Lạt
Trên đồi Prenn có hai biệt thự Pháp bỏ hoang , người dân gọi là biệt thự ma Đà Lạt . Từ balcon nhìn xuống phong cảnh đẹp với rừng thông.
Viện Pasteur
Viện Pasteur Đà Lạt được thành lập năm 1936.
Nhà thờ Cam Ly
nằm trên một ngọn đồi gần thác Cam Ly , có kiến trúc theo lối nà rông của đồng bào Tây Nguyên. Nhà thờ do linh mục Boutary, xây dựng trong 6 năm từ 1960-1968. Dành riêng cho đồng bào thiểu số.
Nhà thờ Tin Lành xây dựng 1936 đến 1942
Evangelische Kirche wurde 1936-1942 gebaut
Lutheran church was built 1936-1942
Église luthérienne a été construit 1936-1942
Thánh Thất Đà Lạt,
Thánh thất Đa Phước hay Thánh Thất Đà Lạt là một Thánh thất Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh, được xây dựng vào năm 1938 khi Lễ Sanh Ngọc Ngọ Thanh (Thế danh Trần Văn Ngọ) một chức sắc Cao Đài được Tòa Thánh Tây Ninh cử đến đây truyền đạo. Thánh thất Đà Lạt xây dựng trên một ngọn đồi diện tích 10ha, cách trung tâm Thành phố Đà Lạt 7 km về phía đông, xung quanh được che phủ những rặng thông . Diện tích Thánh Thất là trên 1.627m² trên tổng diện tích là 14.774m².
Gồm có :
– Hiệp Thiên Đài : 2 lầu chuông, trống. Mỗi lầu cao 18m, gồm 5 tầng
– Cửu Trùng Đài : Phần giữa nối liền Hiệp Thiên Đài với Bát Quái Đài
– Bát Quái Đài : nằm phía cuối của Thánh thất
Trong bài “ Nhất Linh , Cha tôi “ nhà văn Nguyễn Tường Thiết có viết về khoảng thời gian ông sống ở Đà Lạt . Con đường Hoàng Diệu , Đặng Thái Thân và Yagout đả in vết chân thời thơ ấu của nhà văn.
Nguyễn Tường Tam (Hải Dương 25 July 1906 – Saigon, 7 July 1963) better known by his pen-name Nhất Linh was a Vietnamese writer, editor and publisher in colonial Hanoi. He founded the literary group and publishing house Tự Lực Văn Đoàn in 1932 with the literary magazines Phong Hóa and Ngày Nay, and serialized, then published, many of the influential realism-influenced novels of the 1930s. Er hat 5 Jahren in Da Lat gewohnt . Hier sind seine Domizilen.
Đà Lạt là xứ ngàn hoa . Nhưng hoa vương giả vẩn là hoa lan . Tôi nhớ đến một câu viết ngày xưa tình cờ đọc trên mạng , tác giả thì tôi quên tên rồi .
“ Vui chơi chi mấy tình vương giả
Mà nở quên lời hẹn với núi sông “
Tôi dành riêng nửa ngày đi thăm một vườn lan nổi tiếng ở Đà Lạt , vườn lan Nguyễn Châu . Vườn lan nầy trồng rất nhiều Dendrobium , một loại lan mọc nhiều ở Lâm Viên .
„You can get off alcohol, drugs, women, food and cars, but once you’re hooked on orchids you’re finished. You never get off orchids … never.“
– Joe Kunisch, Rochester, New York
“ bạn có thể từ bỏ rượi , thuốc , đàn bà , thực phẩm và xe hơi , nhưng nếu bạn dính vào hoa lan rồi , thì đời bạn kể như tàn . Bạn không bao giờ từ bỏ hoa lan … vỉnh viển „
Joe Kunisch là một tay chơi lan nổi tiếng trên thế giới
Ngày 8
Trước đây vùng hồ Than Thở có một cái ao gọi là Tơnô Pang Đòng. Vào năm 1917, người Pháp đắp đập xây dựng hồ chứa nước cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Đà Lạt và đặt tên hồ là Lac des Soupirs với nghĩa thứ hai (tiếng rì rào), nhưng khi dịch sang tiếng Việt lại dịch theo nghĩa thứ nhất: hồ Than Thở.
Từ lâu, tên hồ Than Thở đã trở nên nổi tiếng với 2 câu thơ:
“Đà Lạt có thác Cam Ly/
Có hồ Than Thở người đi sao đành”
Sở dĩ nổi tiếng là vì hồ nằm gần trường Võ bị quốc gia Đà Lạt (nay là Học viện Lục quân) và gắn liền với một thời hoàng kim của trường vào thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Cứ ngày nghỉ, lễ, chủ nhật là gia đình của các học viên và người yêu kéo đến gặp nhau vui chơi ở đây.
Và cho đến nay vẫn còn câu chuyện Thảo – Tâm cùng ngôi mộ của người con gái xấu số tên Thảo lạnh lẽo ở Đồi thông 2 mộ (từ ngoài vào phía tay trái khu du lịch). Khu nầy là một nghỉa địa củ của Đà Lạt
Hồ Than Thở nằm trên đồi cao giữa một rừng thông tĩnh mịch. Cảnh vật quanh hồ nên thơ, mặt nước hồ luôn phẳng lặng trầm ngâm. Con đường đất ven hồ như mất hút xa xa. Tại đây dường như chỉ còn nghe vi vút tiếng gió nhẹ, tiếng thông reo như thở than, như nức nở. Đồi thông ở hồ Than Thở dường như cũng đẹp hơn các nơi khác vì thông thưa hơn, cao đều hơn nên khi ánh nắng mặt trời rọi xuống ngả bóng trên thảm cỏ rất đẹp.
Hồ Xuân Hương
Đà Lạt ban ngày
Đà Lạt ban đêm
Chợ Đà Lạt
„Đất nào sinh ra tôi mẹ hiền nào cưu mang tôi
Miền nào nuôi thân tôi mà giờ này tôi xa rồi
Này dòng sông phơi nắng kìa đồng ruộng lúa chín vàng
Giờ này tôi xa rồi và ngàn đời nhớ Việt Nam“
Tô Huyền Vân
„Cette terre qui m‘ avait donné la vie
Cette douce mère qui m‘ avait enfanté
Cette région qui m‘ avait nourri
A présent j‘ en suis déjà éloigné
Mais le Viet Nam restera dans mon couer à jamais“
Léon
St Paul de Chartres
Trường trung học Kinh Tế – Kỷ Thuật = trường kỷ thuật Lasan
Trường Quang Trung = 1920 , trường Saint Maria
Trường chuyên thăng DaLat = 20.12.1919 , ecole français , sau đó trường Nazareht
Trường Nam Trung Học = Lycee Bảo Long
Trường Cao Đẳng nghề DaLat = petit Lycee DaLat
Trường Lê Quý Đôn = 1941 , le sacre ceour , 1943 trường Adran
Trường Đoàn Thị Điểm = 1928 ecole communale de DaLat
Thác Gougah nằm sát quốc lộ 20 cách Đà Lạt chừng 37 km , còn được gọi là thác Ổ Gà được tạo thành bởi dòng Đa Nhim chảy qua thị trấn Liên Nghĩa, đến địa phận xã Phú Hội gặp đứt gãy và đổ xuống độ sâu 30m. Thác đả biến mất do ngập nước từ đập nước của nhà máy thủy điện Đại Ninh .
Thác Liên Khương hay thác Liên Khang, có tên cũ là Liên Khàng tại ngã ba Liên Khương, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng. Thác nằm ngay cạnh quốc lộ 20 từ thành phố Hồ Chí Minh lên Đà Lạt, cách Đà Lạt chừng 27 km, cách sân bay Liên Khương khoảng 1 km. Thác Liên Khương đã cạn nước nên đã đóng cửa.
Nhửng địa điểm mà tôi chưa tham quan :
Viện Đại Học Đà Lạt , Giáo Hoàng Học Viện Pio X , Tu viện giòng chúa cứu thế, Dinh Thống Đốc Nam Kỳ , Chùa Linh Quang , Chùa Linh Phong , Thiên Vương Cổ Sát , Trúc Lâm Thiền Viện , XQ Sử Quán . Thác Cam Ly và thác Dabrim.
Giáo Hoàng Học Viện Pio X
All pictures belong to my personal photo gallery. I used Fuji Fine Pix S9600 , Sony Next -7 and Nokia Lumia 1020
The postcards are from my collection
Xin đọc tiếp :
All pictures belong to my personal photo gallery. I used Fuji Fine Pix S9600 , Sony Next -7 , Olympus E 510 and Nokia Lumia 1020
The postcards are from my collection
Nguồn :
1/- From Indochine to Indochic: The Lang Bian/Dalat Palace Hotel and French Colonial Leisure, Power and Culture*
ERIC T. JENNINGS , University of Toronto
2/- Imperial Heights : Dalat and the Making and Undoing of French Indochina
ERIC JENNINGS , University of California Press 2011 , ISBN 9780520266599
3/- L‘ Indochine Française : Bref aperçu de son histoire et des représentations coloniales
Pierre- Jean Simon , Université de Haute – Bretagne , Rennes -II
4/- Nhất Linh , Cha tôi, Nguyễn Tường Thiết
5/- Chuyện nội cung cựu hoàng Bảo Đại , Nguyễn Đắc Xuân , nhà xuất bản Thuận Hoá , năm 2009 .
6/- Giai thoại và sự thật về Bảo Đại , vua cuối cùng Triều Nguyễn , Lý Nhân Phan Thứ Lang , nhà xuất bản văn nghệ
7/- Một thời rừng sát , Lê Bá Ước , nhà tổng hợp Đồng Nai
8/- Mond über Vietnam , Maria Coffey , national geographic
9/- Vietnam , Annaliese Wulf , Nelles Verlag
10/- Vietnam , James Sullivan , der national geographic traveler
11/- Wikipedia